Nếu cuộc khủng hoảng nợ đang lăm le Washington rốt cuộc khiến nước Mỹ rơi vào suy thoái, thì nền kinh tế Mỹ khó có thể chìm một mình.
Hậu quả của việc vỡ nợ lần đầu tiên đối với liên bang Mỹ sẽ nhanh chóng vang dội khắp thế giới. Đơn đặt hàng cho các nhà máy Trung Quốc bán thiết bị điện tử cho Hoa Kỳ có thể teo tóp. Các nhà đầu tư Thụy Sĩ sở hữu trái phiếu Hoa Kỳ sẽ bị lỗ. Các công ty Sri Lanka không còn có thể triển khai đô la như một giải pháp thay thế cho đồng tiền giá trị kém của chính họ.
Ông Mark Zandi, trưởng kinh tế gia tại Moody’s Analytics, nói: “Không một góc nào của nền kinh tế toàn cầu sẽ thoát nạn” nếu chính phủ Mỹ vỡ nợ và cuộc khủng hoảng không được giải quyết nhanh chóng.
Ông Zandi và hai đồng nghiệp tại Moody’s đã kết luận rằng ngay cả khi giới hạn nợ bị vi phạm không quá một tuần, nền kinh tế Hoa Kỳ cũng sẽ suy yếu rất nhiều và nhanh đến mức xóa sạch khoảng 1,5 triệu việc làm.
Và nếu tình trạng vỡ nợ của chính phủ kéo dài lâu hơn nữa – đến tận mùa hè – thì hậu quả sẽ còn khủng khiếp hơn nhiều, ông Zandi và các đồng nghiệp của ông đã nhận thấy trong phân tích của họ: Tăng trưởng kinh tế Mỹ sẽ giảm xuống, 7,8 triệu việc làm của Mỹ sẽ biến mất, lãi suất vay sẽ tăng vọt , tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng từ 3,4% hiện tại lên 8% và sự sụt giảm của thị trường chứng khoán sẽ xóa sạch 10 nghìn tỷ đô la tài sản hộ gia đình.
Tất nhiên, tình hình có thể không đến như vậy. Tòa Bạch Ốc và các thành viên Đảng Cộng hòa tại Hạ viện, đang tìm kiếm một bước đột phá, đã kết thúc một vòng đàm phán về giới hạn nợ vào ngày 21/5, với kế hoạch nối lại đàm phán vào ngày 22/5. Đảng Cộng hòa đã đe dọa để chính phủ vỡ nợ bằng cách từ chối nâng giới hạn theo luật định đối với những gì chính phủ có thể vay trừ khi Tổng thống Joe Biden và Đảng Dân chủ chấp nhận cắt giảm mạnh chi tiêu và các nhượng bộ khác.
Nợ Mỹ, từ lâu được xem là siêu an toàn
Rất nhiều hoạt động tài chính xoay quanh niềm tin rằng nước Mỹ sẽ luôn thanh toán các nghĩa vụ tài chính của mình. Nợ của nước Mỹ, từ lâu đã được coi là một tài sản cực kỳ an toàn, là nền tảng của thương mại toàn cầu, được xây dựng trên nhiều thập niên tin tưởng vào Hoa Kỳ. Một vụ vỡ nợ có thể phá vỡ thị trường nợ trái phiếu trị giá 24 nghìn tỷ đô la, khiến thị trường tài chính đóng băng và gây ra một cuộc khủng hoảng quốc tế.
Ông Eswar Prasad, giáo sư chính sách thương mại tại Đại học Cornell và là thành viên cao cấp tại Viện Brookings, nói: “Vỡ nợ sẽ là một sự kiện thảm khốc, với tác động không thể đoán trước nhưng có thể rất nghiêm trọng đối với thị trường tài chính toàn cầu và Hoa Kỳ.”
Mối đe dọa đã xuất hiện ngay khi nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với vô số các mối đe dọa – từ lạm phát và lãi suất gia tăng đến những hậu quả liên tục của cuộc xâm lược của Nga tại Ukraine cho đến sự siết chặt móng vuốt của các chế độ độc tài. Trên hết, nhiều quốc gia đã trở nên hoài nghi về vai trò to lớn của Mỹ trong nền tài chính toàn cầu.
Trong quá khứ, các nhà lãnh đạo chính trị của Mỹ thường tìm cách thoát khỏi bờ vực và nâng trần nợ trước khi quá muộn. Quốc hội đã tăng, sửa đổi hoặc gia hạn giới hạn vay 78 lần kể từ năm 1960, gần đây nhất là vào năm 2021.
Tuy nhiên, vấn đề đã trở nên tồi tệ hơn. Sự chia rẽ đảng phái trong Quốc hội ngày càng lớn trong khi nợ nần chồng chất sau nhiều năm tăng chi tiêu và cắt giảm thuế sâu. Bộ trưởng Ngân khố Janet Yellen đã cảnh báo rằng chính phủ có thể vỡ nợ ngay sau ngày 1 tháng 6 nếu các nhà lập pháp không tăng hoặc đình chỉ mức trần.
Sốc ‘toàn hệ thống’
Ông Maurice Obstfeld, thành viên cấp cao tại Viện Kinh tế Quốc tế Peterson và là cựu trưởng kinh tế gia tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế nói: “Nếu độ tin cậy của (trái phiếu) bị suy giảm vì bất kỳ lý do gì, thì nó sẽ gây ra làn sóng xung kích khắp hệ thống… và gây ra những hậu quả to lớn đối với tăng trưởng toàn cầu”.
Trái phiếu được sử dụng rộng rãi làm tài sản thế chấp cho các khoản vay, như một bộ đệm chống lại tổn thất của ngân hàng, như một nơi trú ẩn an toàn trong những thời điểm không chắc chắn cao và là nơi để các ngân hàng trung ương dự trữ ngoại hối.
Được coi là an toàn, các khoản nợ của chính phủ Hoa Kỳ – tín phiếu, trái phiếu và giấy bạc – có tỉ trọng rủi ro bằng zero theo quy định của ngân hàng quốc tế. Chính phủ nước ngoài và các nhà đầu tư tư nhân nắm giữ khoản nợ gần 7,6 nghìn tỷ đô la – khoảng 31% trái phiếu trên thị trường tài chính.
Do sự thống trị của đồng đô la đã khiến nó trở thành tiền tệ toàn cầu trên thực tế kể từ Thế chiến Thứ hai, Hoa Kỳ tương đối dễ dàng vay mượn và tài trợ cho những khoản nợ chính phủ ngày càng tăng.
Nhưng nhu cầu cao đối với đồng đô la cũng có xu hướng làm cho chúng trở nên có giá trị hơn so với các loại tiền tệ khác và điều đó gây ra một cái giá: Đồng đô la mạnh khiến hàng hóa Mỹ trở nên đắt hơn so với các đối thủ nước ngoài, khiến các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ gặp bất lợi trong cạnh tranh. Đó là một trong những lý do tại sao Hoa Kỳ bị thâm hụt thương mại hàng năm kể từ năm 1975.
Ngân hàng trung ương tồn trữ đồng đô la
Trong tất cả các khoản dự trữ ngoại hối do các ngân hàng trung ương trên thế giới nắm giữ, đô la Mỹ chiếm 58%. Đứng thứ 2 là đồng euro: 20%. Nhân dân tệ của Trung Quốc chiếm dưới 3%, theo IMF.
Các nhà nghiên cứu tại Cục Dự trữ Liên bang đã tính toán rằng từ năm 1999 đến 2019, 96% giao dịch ở Châu Mỹ được lập hóa đơn bằng đô la Mỹ. Bảy mươi bốn phần trăm thương mại ở châu Á cũng vậy. Ở những nơi khác ngoài châu Âu, nơi đồng euro thống trị, đô la chiếm 79% thương mại.
Tiền tệ của Mỹ đáng tin cậy đến mức các thương nhân ở một số nền kinh tế không ổn định yêu cầu thanh toán bằng đô la, thay vì tiền tệ của quốc gia họ. Ví dụ như Sri Lanka, quốc gia bị vùi dập bởi lạm phát và sự sụt giá chóng mặt của đồng nội tệ. Đầu năm nay, các chủ hàng đã từ chối giao 1.000 container thực phẩm cần thiết trừ khi họ được trả bằng đô la. Các lô hàng chất đống tại các bến cảng ở Colombo vì các nhà nhập khẩu không thể có đô la để thanh toán cho các nhà cung cấp.
Ông Nihal Seneviratne, phát ngôn viên của Hiệp hội Thương nhân và Nhập khẩu Thực phẩm Thiết yếu nói: “Không có (đô la), chúng tôi không thể thực hiện bất kỳ giao dịch nào. “Khi chúng tôi nhập khẩu, chúng tôi phải sử dụng ngoại tệ mạnh — chủ yếu là đô la Mỹ.”
Tương tự như vậy, nhiều cửa hàng và nhà hàng ở Lebanon, nơi lạm phát gia tăng và đồng tiền sụt giá, đang yêu cầu thanh toán bằng đô la. Năm 2000, Ecuador đã đối phó với một cuộc khủng hoảng kinh tế bằng cách thay thế đồng tiền của mình, đồng sucre, bằng đô la – một quá trình được gọi là “đô la hóa” – và đã bị mắc kẹt với nó.
Đích đến an toàn cho các nhà đầu tư
Ngay cả khi một cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ Hoa Kỳ, đồng đô la luôn là nơi trú ẩn an toàn cho các nhà đầu tư. Đó là những gì đã xảy ra vào cuối năm 2008, khi sự sụp đổ của thị trường bất động sản Hoa Kỳ đã lật đổ hàng trăm ngân hàng và công ty tài chính, bao gồm cả Lehman Brothers hùng mạnh một thời: Giá trị của đồng đô la tăng vọt.
Ông Clay Lowery, người giám sát nghiên cứu tại Viện Tài chính Quốc tế, một nhóm thương mại ngân hàng, nói: “Đồng đô la là vua.”
Nếu Hoa Kỳ vượt qua giới hạn nợ mà không giải quyết được tranh chấp và Bộ Ngân khố không trả được nợ, ông Zandi gợi ý rằng đồng đô la sẽ một lần nữa tăng giá, ít nhất là ban đầu, “vì sự không chắc chắn và nỗi sợ hãi. Các nhà đầu tư toàn cầu sẽ không biết phải đi đâu ngoại trừ nơi họ luôn đến khi có khủng hoảng và đó là Hoa Kỳ.”
Nhưng thị trường trái phiếu có thể sẽ bị tê liệt. Thay vào đó, các nhà đầu tư có thể chuyển tiền vào các quỹ thị trường tiền tệ của Hoa Kỳ hoặc trái phiếu của các tập đoàn hàng đầu của Hoa Kỳ. Cuối cùng, ông Zandi nói, sự nghi ngờ ngày càng tăng sẽ làm giảm giá trị của đồng đô la và giữ nó ở mức thấp.
Chiến lược của chính phủ nếu mức trần nợ bị vỡ
Trong cuộc khủng hoảng trần nợ, ông Lowery, người từng là phụ tá Bộ trưởng Ngân khố trong cuộc khủng hoảng năm 2008, mường tượng rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục trả lãi cho các trái chủ, và sẽ cố gắng thanh toán các nghĩa vụ khác của mình – chẳng hạn như cho các nhà thầu và người về hưu – theo thứ tự đáo hạn và khi có tiền.
Đồng đô la, mặc dù vẫn chiếm ưu thế trên toàn cầu, nhưng đã mất điểm trong những năm gần đây khi nhiều ngân hàng, doanh nghiệp và nhà đầu tư chuyển sang sử dụng đồng euro và ở mức độ thấp hơn là đồng nhân dân tệ của Trung Quốc. Các quốc gia khác có xu hướng bực bội về việc giá trị của đồng đô la dao động có thể gây tổn hại cho tiền tệ và nền kinh tế của chính họ như thế nào.
Đồng đô la tăng giá có thể gây ra khủng hoảng ở nước ngoài bằng cách rút vốn đầu tư ra khỏi các quốc gia khác và làm tăng chi phí trả các khoản vay bằng đồng đô la của họ. Việc Hoa Kỳ háo hức sử dụng sức mạnh của đồng đô la để áp đặt các biện pháp trừng phạt tài chính đối với các đối thủ và thù địch cũng bị một số quốc gia khác cảm thấy khó chịu.
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có lựa chọn thay thế rõ ràng. Đồng euro thua xa đồng đô la. Nhân dân tệ của Trung Quốc thậm chí còn thua xa hơn; nó bị cản trở bởi việc Bắc Kinh từ chối để đồng tiền của mình được giao dịch tự do trên thị trường toàn cầu.
Nhưng kịch tính về trần nợ chắc chắn sẽ làm dấy lên câu hỏi về sức mạnh tài chính to lớn của Hoa Kỳ và đồng đô la Mỹ.
(VOA)