LOS ANGELES, California (NV) – Trong lúc người dân Mỹ đang chuẩn bị đón ngày Lễ Lao Động sắp đến, nhiều chuyên gia kinh tế đang báo động Hoa Kỳ thiếu nhân lực, và cần có thêm người nhập cư để đủ nhân viên cho nhiều ngành nghề. Đó là chủ đề chính của buổi hội thảo do tổ chức Dịch Vụ Truyền Thông Thiểu Số (EMS) tổ chức hôm Thứ Sáu, 26 Tháng Tám.
Sau khi vượt qua nguy hiểm từ đại dịch COVID-19, nhiều ngành nghề ở Hoa Kỳ từ xây dựng đến y tế và thực phẩm đều thiếu người. Có một cách để tạo nhân lực là cho nhập cư vào Hoa Kỳ nhiều hơn.
Một số báo cáo cho biết trong tài khóa 2022 có khoảng 2 triệu người đi qua biên giới Hoa Kỳ, nhưng điều đó không có nghĩa là có 2 triệu người nhập cư. Các chuyên gia kinh tế cho biết những nghề thường tuyển người dân cư vẫn còn trống chỗ từ 10% đến 15%.
Trong khi đó, hệ thống di trú của Hoa Kỳ vẫn còn nhiều thiếu sót, rất nhiều người đang đợi được cấp thẻ xanh, mấy thế hệ đang đợi được thành cư dân hợp pháp, và Quốc Hội chưa có một thay đổi nào đối với chính sách di trú.
Tại buổi hội thảo, các chuyên gia nói về những chính sách di trú ảnh hưởng ra sao đến tình trạng thiếu nhân lực do không đủ dân nhập cư, cũng như những tác hại đến kinh tế và ảnh hưởng lâu dài đến kinh tế Hoa Kỳ như thế nào.
Diễn giả đầu tiên là Tiến Sĩ Giovanni Peri, giáo sư kinh tế đại học UC Davis và giám đốc Trung Tâm Di Trú Toàn Cầu của đại học này.
Ông cho biết dữ liệu từ Cục Thống Kê Dân Số cho thấy vào cuối năm 2021 và đầu năm 2022, Hoa Kỳ bắt đầu có nhiều người nhập cư lại, nhưng rất ít trong năm 2020. Nếu không gặp trở ngại, số người nhập cư vào Hoa Kỳ có thể nhiều như từ năm 2010 đến giữa năm 2019, và tính đến Tháng Bảy, 2022, số người đó có thể nhiều hơn con số hiện nay 1.7 triệu người.
Trong năm 2019, chính phủ Hoa Kỳ bắt đầu đưa ra những giới hạn về việc xin visa và còn cấp visa chậm hơn trước, làm số người nhập cư giảm. Sau đó, đại dịch COVID-19 bùng phát, làm số người nhập cư trong năm 2020 và 2021 giảm xuống gần như con số không. Đến cuối năm 2021 và qua năm 2022, Hoa Kỳ mới bắt đầu cho nhập cư gần như bình thường trở lại.
Vì vậy, Tiến Sĩ Peri cho hay Hoa Kỳ đang thiếu 1.7 triệu người nhập cư, và những người đó là nguồn lực rất quý giá cho lao động của Mỹ. Khoảng 900,000 người có thể làm việc cho những ngành khoa học như y tế, điện toán, sinh học, và dược phẩm. Khoảng 800,000 người còn lại có thể làm những nghề không cần bằng đại học như thực phẩm, dịch vụ, nhà hàng, chăm sóc người khuyết tật, trẻ em, và người lớn tuổi.
Giáo sư còn nói Hoa Kỳ đang có nhiều người nghỉ hưu sớm, trong độ tuổi 50 đến 60, cộng với tình trạng thiếu người nhập cư đang làm nước Mỹ thiếu nhân lực trầm trọng.
Diễn giả thứ hai là bà Julie Collins, giám đốc chương trình của ngành khoa học tim phổi đại học Rush University. Bà nói về tình trạng thiếu nhân lực trầm trọng trong ngành y tế.
Bà cho biết bà không phải chuyên gia di trú, nhưng có nhiều kinh nghiệm của người nhập cư đáng chia sẻ vì cha mẹ là người nhập cư. Bà nói bà từng thuê một số nhân viên làm việc theo visa H-1B, nghĩa là visa cho phép người nước ngoài làm việc ở Hoa Kỳ, và có nhiều sinh viên nhập cư theo diện DACA. Bà thấy những người đó gặp nhiều khó khăn để đi làm và đi học vì các vấn đề di trú.
Vì là người làm trong ngành y tế, bà thấy nhiều y tá mệt mỏi trong đại dịch COVID-19, cùng tình trạng thiếu nhân lực trầm trọng. Sau khi qua khỏi nguy hiểm của đại dịch, nhiều y tá đổi nghề hoặc nghỉ hưu sớm, tạo ra tình trạng thiếu y tá.
Những y tá còn làm việc phải làm nhiều giờ hơn, một y tá phải chăm sóc nhiều bệnh nhân hơn, chứ không được chăm sóc chỉ một bệnh nhân như trước. Điều đó làm họ chăm sóc bệnh nhân không tốt như trước, dễ phạm nhiều sai lầm nguy hiểm và gây căng thẳng.
Bà Collins cho hay hiện nay Hoa Kỳ thiếu rất nhiều y tá, và chuyện thuê những y tá nhập cư sẽ không làm mất công việc của y tá người Mỹ.
Bà nói đây không phải là lần đầu tiên y tá nước ngoài giúp đỡ y tá Mỹ. Trong thập niên 1980 và 1990, dịch AIDS làm nhiều bệnh viện thiếu y tá, và người nhập cư giúp bệnh viện có đủ nhân lực để đối phó.
Diễn giả cuối cùng là Luật Sư Gregory Chen, giám đốc quan hệ chính phủ của Hiệp Hội Luật Sư Di Trú Hoa Kỳ. Ông nói về những vấn đề của hệ thống di trú của Hoa Kỳ và tình trạng không có sự thảo luận về luật di trú tại Quốc Hội.
Ông nói về những thay đổi do chính quyền Donald Trump tạo ra cho hệ thống di trú Mỹ, trong đó có tăng thời gian để cấp visa. Một visa lao động H-1B bình thường mất hai đến ba tháng để cấp, nhưng thủ tục đó mất đến sáu tháng trong thời kỳ ông Trump làm tổng thống.
Điều đó gây ra tình trạng thiếu nhân lực, nhiều doanh nghiệp không hoạt động được vì nhiều người phải đợi visa H-1B.
Đối với những người xin tị nạn hoặc cư trú vì những lý do khác, họ phải đợi tòa án xét duyệt. Trong hai nhiệm kỳ của Tổng Thống Barack Obama, có khoảng 500,000 người phải đợi tòa án xét duyệt. Con số này tăng lên khoảng 1.3 triệu trong nhiệm kỳ của Tổng Thống Trump.
Những người đó phải mất khoảng ba hoặc bốn năm để được ra tòa, và khoảng thời gian dài đó sẽ làm bằng chứng của họ không còn giá trị nữa, hoặc nhân chứng không muốn giúp đỡ nữa.
Không chỉ vậy, ông còn nói Quốc Hội không có nhiều thảo luận về luật di trú, không có những chính sách mới về di trú, càng tạo ra nhiều khó khăn về lao động ở Hoa Kỳ vì thiếu nhân lực. [đ.d.]
(Nguoi-viet)